Nghiên cứu thực hiện kiểm tra mối quan hệ nhân quả giữa tự do hóa tài khoản vốn và sự phát triển tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2012 dựa trên kiểm định Granger. Kết quả chỉ ra rằng, tự do hóa tài khoản vốn và sự phát triển tài chính (được đại diện bởi biến tín dụng trong nước/GDP và cung tiền mở rộng/GDP) ở Việt Nam chỉ có mối quan hệ một chiều từ sự phát triển tài chính tới tự do hóa tài khoản vốn, nghĩa là tự do hóa tài khoản vốn chưa có tác động thúc đẩy phát triển tài chính ở Việt Nam, mà ngược lại phát triển tài chính trong nước chính là cơ sở, là tiền đề cho việc mở cửa rộng hơn thị trường vốn. Với kết quả này, bài viết đưa ra khuyến nghị Việt Nam cần phát triển tài chính trước khi mở cửa rộng hơn thị trường vốn để tiếp tục thu hút các dòng vốn đầu tư từ nước ngoài tiềm năng cũng như để nhận được lợi ích thực sự từ quá trình tự do hóa tài khoản vốn.
Tải ứng dụng đọc sách
Qr code NEU Book Reader
(Lưu ý: Sử dụng ứng dụng NEU Book Reader để xem đầy đủ tài liệu.
Bạn đọc có thể tải NEU Book Reader từ App Store hoặc Google play
với từ khóa "NEU Book Reader")
Nghiên cứu thực hiện kiểm tra mối quan hệ nhân quả giữa tự do hóa tài khoản vốn và sự phát triển tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2012 dựa trên kiểm định Granger. Kết quả chỉ ra rằng, tự do hóa tài khoản vốn và sự phát triển tài chính (được đại diện bởi biến tín dụng trong nước/GDP và cung tiền mở rộng/GDP) ở Việt Nam chỉ có mối quan hệ một chiều từ sự phát triển tài chính tới tự do hóa tài khoản vốn, nghĩa là tự do hóa tài khoản vốn chưa có tác động thúc đẩy phát triển tài chính ở Việt Nam, mà ngược lại phát triển tài chính trong nước chính là cơ sở, là tiền đề cho việc mở cửa rộng hơn thị trường vốn. Với kết quả này, bài viết đưa ra khuyến nghị Việt Nam cần phát triển tài chính trước khi mở cửa rộng hơn thị trường vốn để tiếp tục thu hút các dòng vốn đầu tư từ nước ngoài tiềm năng cũng như để nhận được lợi ích thực sự từ quá trình tự do hóa tài khoản vốn.