Tạp chí tiếng Việt
Duyệt Tạp chí tiếng Việt theo Tác giả "Bạch, Ngọc Thắng"
Đang hiển thị 1 - 4 của tổng số 4 kết quả
Số kết quả/trang
Tùy chọn sắp xếp
- Ấn phẩmHành vi lựa chọn khu vực làm việc của lao động trẻ tốt nghiệp giáo dục bậc cao: Kết quả từ một cuộc khảo sát cấp quốc gia ở Việt Nam(Kinh Tế Quốc Dân, 2018) Bạch, Ngọc ThắngCác nghiên cứu trước đây chủ yếu nhìn nhận khu vực không chính thức là nơi tập trung nhiều lao động có trình độ chuyên môn thấp. Có rất ít các nghiên cứu đề cập đến hành vi lựa chọn khu vực làm việc này của lao động trẻ mới tốt nghiệp giáo dục bậc cao ở Việt Nam. Bằng việc sử dụng bộ số liệu quốc gia điều tra lao động và việc làm trong năm 2015, trong đó có kiểm soát cho những sai lệch trong lựa chọn vốn phổ biến trong nghiên cứu về thị trường lao động, nghiên cứu này cho thấy lao động trẻ tốt nghiệp cao đẳng và đại học có khuynh hướng làm việc ở khu vực không chính thức thấp hơn đáng kể so với nhóm tốt nghiệp trung học phổ thông. Tuy nhiên, khuynh hướng này không phải là do sự phân mảnh trên thị trường lao động do luật lệ hay chi phí gia nhập, mà là do lựa chọn tự do theo lý thuyết nguồn vốn con người của người lao động. Kết quả này đã cũng cấp bằng chứng quan trọng liên quan đến đóng góp của giáo dục bậc cao đến hành vi lựa chọn khu vực làm việc của lao động trẻ ở Việt Nam
- Ấn phẩmTham nhũng dựa trên “cấu kết” và định hướng mới trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam(Kinh Tế Quốc Dân, 2017) Nguyễn, Văn Thắng; Lê, Quang Cảnh; Nguyễn, Vũ Hùng; Bạch, Ngọc ThắngTham nhũng rất đa dạng và cần được phân loại để phòng chống có hiệu quả. Dựa trên hai tiêu chí là “khoảng tự do chính sách” và “sự cấu kết”, bài viết chia tham nhũng thành bốn loại khác nhau. Những biểu hiện và sự vận động của các loại tham nhũng này được mô tả tóm tắt từ các tình huống nghiên cứu ở các dự án phát triển hạ tầng có sự tham gia của nguồn vốn ngoài ngân sách. Kết quả cho thấy tham nhũng dựa trên “sự cấu kết” khá phổ biến và có tác động lớn tới sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương và cả nước. Để phòng, chống tốt hơn tham nhũng dựa trên “sự cấu kết”, các biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích, tăng cường sự tham gia thực chất của người dân, và xây dựng một khu vực doanh nghiệp liêm chính là hết sức cần thiết
- Ấn phẩmTín dụng thương mại và kết quả hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn thắt chặt tín dụng(Kinh Tế Quốc Dân, 2018) Bạch, Ngọc ThắngNghiên cứu này đề cập về mối quan hệ giữa tín dụng thương mại, hay các khoản phải trả nhà cung cấp, và kết quả hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) trong giai đoạn thắt chặt tín dụng 2011 – 2014 ở Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, tín dụng thương mại có tác động làm tăng doanh thu và gia tăng các hoạt động đầu tư của SME, ngay cả trong giai đoạn đầu và giai đoạn giữa của khủng hoảng tín dụng. Việc tăng một điểm phần trăm trong tỷ lệ tín dụng thương mại/tổng tài sản sẽ giúp doanh thu tăng thêm 1,2%, đồng thời gia tăng xác suất đầu tư thêm 61%. Bên cạnh đó, quy mô tác động tích cực này của tín dụng thương mại là tương đương, và có vai trò bổ sung cho vốn vay ngân hàng. Kết quả này có hàm ý chính sách quan trọng đối với việc duy trì mối quan hệ bền chặt của SME với các nhà cung cấp, và vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm nguồn vốn tín dụng ngân hàng cho SME trong giai đoạn khủng hoảng.
- Ấn phẩmTổ chức công đoàn và hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp nhỏ và vừa(Kinh Tế Quốc Dân, 2020) Bạch, Ngọc ThắngNghiên cứu này phân tích ảnh hưởng của tổ chức công đoàn đến hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015. Tuy đã có nhiều nghiên cứu đề cập về mối quan hệ này ở các nước phát triển, nhưng một nghiên cứu sâu ở quốc gia đang phát triển và chuyển đổi như Việt Nam lại rất có ý nghĩa do tổ chức công đoàn ở quốc gia này rất khác về vị thế và khả năng đàm phán. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự có mặt của tổ chức công đoàn làm gia tăng hoạt động cải tiến sản phẩm hiện có, thúc đẩy doanh nghiệp đưa ra công nghệ hay qui trình sản xuất mới, và kế hoạch giới thiệu sản phẩm mới trong tương lai. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam chỉ chú trọng đầu tư chiều sâu bằng việc phát triển công nghệ/qui trình sản suất mới hay giới thiệu sản phẩm mới, nếu như chủ tịch công đoàn đồng thời là chủ hay có mối liên hệ với chủ doanh nghiệp. Vấn đề này có hàm ý chính sách quan trọng cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp trong dài hạn, đồng thời bảo đảm mối quan hệ hài hòa giữa người lao động và chủ doanh nghiệp.

